“Tết” đối với tôi hồi trẻ thơ hình như luôn gắn liền với chữ “mới”. “Năm mới”, như bà tôi thường bảo khi tháng Chạp đã nghiêng, ánh nắng pha màu trăng lấp ló bên kia sông, kéo lên đỉnh núi Kim Phụng từ đồi Hà Khê. Ấy là lúc nắng “mới” lên, sau mấy tháng mưa dầm lê thê. Một buổi sớm mai còn ngái ngủ trong mùng, nghe bà nói vọng sang bên gian chái phía tây, dặn dò mấy bác sửa soạn lá dong, lá chuối, đong nếp, chuẩn bị mứt món đón Tết, mừng năm mới.
Có lẽ đối với người lớn, “mới” mang ý niệm thời gian như dòng sông Hương đang chảy ngoài kia, mải miết sóng dồn sóng triền miên – năm cũ bước sang năm mới, – có một biến chuyển sắp xảy ra, một bước nhảy thể tính, thay đổi đời người, thay đổi vận mệnh trong hướng lạc quan, hi vọng. Tiễn đưa năm cũ để đón năm mới đối với người lớn là một lễ nghi mang nhiều bí nhiệm, liên quan đến trời đất cỏ cây con người…
Còn đối với tôi ngày ấy, hình như cái gì vui, cái chi ngon, cái chi hay đều gắn liền với mới, với Tết như áo mới, quần mới, trò chơi mới, tiền lì xì mới. Cho nên từ khi tiếng của bà phát âm chậm rãi chữ “năm mới” vọng lên trong căn nhà, có một nỗi mừng khấp khởi làm nao lòng, và chờ đợi dấy lên từ lúc não nao… Đợi đến năm mới… nghe sao nó lâu hơn cả thế kỷ… trong trái tim non… Bao nhiêu giấc mơ quấn tròn theo chữ mới ấy nhỉ?… Mà phải đợi… ôi lâu! Dạo ấy đời sống còn đơn sơ, mơ ước cũng thật giản dị vô cùng, một đồng xu mới, một con tu huýt đất sét mới nặn, một đôi guốc mộc còn thơm mùi gỗ mới, áo mới, quần mới… Những điều chưa có đều được mắc vào cành cây mùa xuân… với nỗi ngóng mong…
Cho đến sáng mồng một Tết, khi được mẹ mặc cho áo mới, quần mới, tôi mới biết mùi “mới” lạ thế nào, đó là mùi vải quyến còn thơm sợi vải bông gòn ngai ngái mà nếu không vì… năm mới… thì tôi đã giãy nảy không chịu mặc vào, trẻ nít thường ưa áo cũ, vì ghiện hơi áo quen thuộc ngọt ngào, nhưng cũng chỉ vì hai chữ năm mới, thấy mình như người lớn mà lau chau đòi mặc. Khi mặc vào thì thấy người mình cứng đơ như búp bê biết đi. Cái áo hắn mới chi mà lạ!
Khi nút áo cuối cùng được cài xong thì đã thấy các anh chị con bác con cô suýt soát tuổi xúng xính ngoài hiên, bộ dạng khác với thường ngày, tay chân lúng ta lúng túng, đi chập chững từng bước một, nhưng mặt ai cũng hí hửng nghênh nghênh, bộ tịch ngượng nghịu buồn cười…trong bộ cánh mới tinh…”
Chén trà sớm của tôi hôm nay đã nguội trong tay, mà tôi còn lan man… lẩm cà lẩm cẩm với cũ mới mô tê… như nói mớ trong mê, nếu không có tiếng rơi trịch của đóa hải đường trên sân đất và nắng sớm len qua buồng hoa cau mới trổ, khẽ rớt lên thềm, làm chói mắt. Mới biết tôi đang ngồi đây, trên nền cũ ngôi nhà xưa ấy, như mỗi lần trở về, uống chén trà hoa mộc với cảm giác mình có thể ngồi mãi nơi đây, cả tháng liền năm, hương trà nhấp đượm một thứ hạnh phúc đến từ cội rễ ngàn xưa… nối mãi đến ngàn sau.
Để xin lỗi cho chén trà muộn này – và những câu cà kê – trăm dâu chỉ một tội này mà thôi, xin đổ lỗi này cho… màu nắng ấy! Nắng mới! Mà hình như chỉ có ở Huế mới có thứ nắng này. Lạ lẫm như chưa bao giờ thấy, như hư như thực có thể xui mơ giữa ban ngày. Chén trà của tôi rung động trong nắng thấp thoáng gần xa. Màu nắng mới đang mông lung choàng lên buồng hoa cau, rải trên lá nhãn lá vải lấp lánh màu sáng tựa ánh trăng, mơ hồ trên dòng nước huyền hoặc khói sương sau hơn chín mươi ngày trót mưa. Ai trải qua ba tháng mưa dầm ở Huế, mưa và mưa như không thể dứt, sợi liền sợi, giọt nối giọt, khi ồ ạt khi thánh thót, khi nhẹ như tiếng ru, khi não nuột những thở dài, khi tấm tức nghẹn ngào, khi ủ dột u sầu, mờ mịt tối tăm luôn cả tâm hồn, mới biết nắng về như một ân huệ hồi sinh. Khi mặt trời vừa vén mây. thả lơ lửng vài sợi nắng trên con sông bao phen chìm lỉm trong mưa, chậm rãi nâng núi vươn cao trong một thứ ánh sáng hầu như không thật… khu vườn với cây lá bỗng hiện ra ảo mộng như trong cổ tích. Cổ tích mà có thật trên thế gian. Bởi ánh nắng ấy chỉ ban ơn cho những ngày xuân ở Huế. Cho nên tôi thường gọi nó là nắng Tết. Cho nên khi nắng hé lên toả khắp không gian, ta có thể kêu lên “nắng như Tết… Tết đã về ngoài ngõ…”.
Như một lễ nghi ngoài nghi lễ, sáng mùng một Tết, sau giờ chúc thọ các ông bà, các bác, các cô, anh chị em chúng tôi kéo nhau ra sân khoe với nhau áo mới, đủ màu hồng vàng xanh đỏ những vạt áo tay áo sột soạt còn cứng nước hồ mới toanh. Áo đứa mô cũng đẹp hết! So áo xong rồi chụm đầu lại với nhau mở bao lì xì đếm cho nhau những tờ bạc mới toanh. Bà và mẹ không thiên vị với đứa trẻ nào, 2 tờ bạc mới được đếm lui đếm tới thành… như nhiều hơn! Bạc mới thời ấy thơm ghê! Chả là tôi đã nhiều lần đưa tờ bạc lên mũi hít để nghe rõ mùi nó mới ra làm sao!
Thế rồi cả bọn kéo nhau ra ngoài ngõ, đi xem Tết. Bức tranh tết Huế ngày xưa quả khác với ngày nay. Trên con đường dọc bờ sông Hương, con đường đến chùa Linh Mụ nhẹ hẫng tiếng chuông hành hương ngày mồng một Tết, rải rác những hột nổ xanh đỏ tím vàng của buổi cúng đêm giao thừa nhà nhà đã tung ra theo với lời khấn nguyện “trời quang mây tạnh, phước lộc hằng hà” và xác pháo mừng xuân tưng bừng tô điểm vui mắt người đi…
Dòng sông Hương chung thủy dải nước lao xao xanh màu lục thúy, núi Kim Phùng xanh màu xanh da trời bát ngát đàng xa, và nắng đan bóng tre trên con đường đất làm vui chân khách vãn cảnh chùa, những tà áo mới màu sắc muôn vẻ vờn bay trong gió. Nhìn là thấy hân hoan, hớn hở trong lòng khiến cho cảm thấy bình an dưới thế.
Xa xa dưới chợ Kim Long tiếng trống chầu giòn giã trong gió thoảng của gánh hát bội ngày xuân, tiếng hát bài chòi theo sóng nước dạt đến tận Hà Khê…
Cảnh vui Tết ngày xưa cũng khác với cảnh Tết thời nay, rộn ràng mà không hỗn loạn xô bồ. Xế trưa mồng một Tết đã thấy dưới bóng cây đa hay lũy tre những đám đông tụ lại quây quanh những bàn bài vụ, bàn bầu cua cá cọp, bàn nhất lục, thử vận đỏ đen trong những ngày đầu năm. Cảnh tượng thanh bình, hoan lạc. Ngoài đình có bài chòi, trong gia đình chúng tôi chơi bài tới, đổ xăm hường. Những cuộc chơi thử vận đỏ đen này được cho phép trong ba ngày Tết. Chơi bài ngày Tết không đồi trụy như tứ đổ tường, không khủng hoảng tinh thần như những thứ cá độ, không phá sản như các sòng bạc casino.
Chơi đùa cũng là một cách thể hiện tính xã hội của hiện sinh tại thế, nó thuộc tính người, từ lúc trẻ thơ. Chơi cũng là một cách xã giao giữa người với người. Ở đây tính xã hội nằm trên bình diện thả lỏng, tự nguyện không ép buộc, trong khuôn khổ đồng thuận “chơi” cùng với nhau, có thể tăng thêm phẩm chất cuộc sống chung thay vì sát phạt, chém nhau. Giải trí cần thiết cho con người, và cách thể hiện giải trí như thế nào bộc lộ phẩm chất văn hóa của con người.
Cho nên ngày Tết chúng tôi được chơi bài, ăn thua với những đồng tiền mới, gia tài “kếch xù” gồm mấy đồng bạc mới được lì xì. Cứ Tết này qua Tết khác, tôi thuộc lòng các môn chơi bài ngày Tết đến nỗi nằm mơ từ chốn tha hương: con ngựa hồng, con trâu xanh, con voi trắng, ếch vàng, tôm hồng, cá bạc, con heo đen, con rùa xanh trên tấm gỗ vuông vẽ hình các con thú của bàn bài vụ. Những ngày năm ấy, bọn trẻ đùa vui trên ngõ, quay lui quay tới đã thấy anh H. sà vào bàn bài vụ bên vệ đường. Anh H. mê bài vụ đến nỗi ngồi lì ở đó quên cả ăn cơm và có nhiều khi đi về với những đồng bạc rủng rỉnh trong túi mặt mày hớn hở chia cho chúng tôi nhưng cũng có khi sạch bách tiền lì xì, sạch luôn cả tiền mượn chúng tôi. Còn chị tôi mê bài tới. Bài tới, nguồn gốc của trò chơi bài chòi, gồm những quân bài có tên những sinh hoạt và hiện vật ngày thường, biểu hiện thú chơi dân dã: thầy, trò, ngủ trưa, gióng, gối, trường hai, trường ba, sáu tiền, tám tiền, thường chơi 6 người trong gia đình, đem lại nụ cười cắn chỉ trầu cau của bà, mẹ, chị, anh, em, ở mỗi tiếng hô quân bài, kèm theo những câu thơ trào phúng làm những người cùng chơi cười hỉ hả. Vào những ngày ấy, người ta không khóc nhỉ! Nghe như tiếng cười còn đọng quanh cột nhà! Chị tôi thích bài tới vì chị thường gặp hên, năm mô cũng “tới rồi” (tiếng hô khi thắng cuộc, hết quan bài rác, còn con bài chực được người cùng chơi đánh trúng) với nụ cười đẹp nhất của chị từ thuở ngày xưa! Còn tôi mê nhất đổ xăm hường…
Chén trà nguội ngắt trong tay và mưa bắt đầu lạt sạt trên lá chuối bên song, trời hửng sáng từ lâu mà câu chuyện nghìn lẻ một đêm chưa dứt, ký ức tôi đang kỳ kéo níu tôi quay về với tiếng leng keng của sáu hột súc sắc của bộ xăm hường, một trò chơi tiêu biểu của gia đình Huế vào dịp đầu năm. Đầu năm nếu ai đổ ra mặt hường (mặt tứ của con súc sắc được bôi màu đỏ) là hên, đổ ra ông trạng (tứ hường) thì năm mới công danh thành đạt, đổ ra ngũ hường là công danh hiển hách, đổ ra lục phú là giàu to (lùa hết cả làng!), đổ ra lục phú hường, hoạ hiếm nhất trong trò chơi này, được lùa hết cả làng mà còn có nghĩa đại đại phú kếch xù, ăn gấp đôi, nhưng người Huế thường cho rằng, đỏ quá hóa thành đen, đổ lục hường xui, năm mới phải đề phòng! Xăm hường là một trò chơi phản ảnh ít nhiều nhân sinh quan của chốn cố đô kinh kỳ, giấc mơ trạng nguyên, tiến thân của mỗi người trong xã hội, ẩn nấp trong trò chơi này, vận đỏ đen của đời người và niềm hi vọng tiến lên phía trước… đồng thời với quan niệm sống trung đạo ngay cả trong lúc chơi, không nên đỏ quá, mà thành xui! Xăm hường với lũ trẻ chúng tôi ngày ấy làm thích thú vì tiếng reo của súc sắc trên tô sứ xưa nghe leng keng vui tai đến bây giờ còn vẳng lại… Ngày Tết mà không nghe tiếng bát sứ kêu lanh canh do hột súc sắc quăng xuống là… chưa phải Tết ở Huế tôi…
Cho đến bây giờ, bên trời Tây tôi vẫn còn giữ bộ xăm hường xưa quý giá ngày ấy, vẫn bày ra ngày Tết để chơi với con cháu và với cả những người bạn Đức, họ cũng bắt chước hô nhất hường nhị hường. Trong những lần chơi, tôi vẫn còn nghe xen lẫn tiếng hôm nay tiếng của ngày xưa ấy với những kỷ niệm lạ lùng, mà mỗi khi nhớ về, có thể rớt nước mắt vì thương…
Mưa đã tạnh cơn rồi, bình trà vừa cạn, nghe điện thoại reo và tiếng Kim Chi hỏi “Chị ơi chiều nay có đổ xăm hường?”. Tiếng trong trẻo như tiếng của ai một thời thơ dại.
Content Việt Bắc
Click Ngay