Thiên Mục hay Tenmoku là chất men nổi tiếng của Trung Quốc và Nhật Bản. Khác với các loại men thông thường khi có màu sáng như trắng hay xanh ngọc bích, men Thiên Mục thường là kết hợp của những mảng màu tối của đất và kim loại bị nung ở nhiệt độ rất cao. Thiên Mục được người Nhật đặt theo tên một ngọn núi ở Phúc Kiến, theo tài liệu ghi nhận thì các nhà sư Nhật Bản ghé qua đền trên núi Thiên Mục và thấy các nhà sư nơi đây sử dụng chén trà làm từ chất men lạ, nên khi đưa đồ gốm tráng men này về nước cũng gọi theo tên ngọn núi này. Còn ở Trung Quốc người ta gọi loại men này là Kiến Trản. Đồ gốm tráng men Thiên Mục rất được ưa chuộng vào thời nhà Tống (960-1279) và Bắc cũng như Nam Tống sau này. Vào giai đoạn này thì gốm tráng men Thiên Mục cũng được xuất sang cả Nhật Bản và được giới quan lại và thương gia nước này rất ưa chuộng vì sở hữu loại đồ gốm này chính là biểu hiện cho sự giàu có. Sau này người Nhật đưa phong cách tráng men này về nước để tự sản xuất men Thiên Mục và bảo tồn phong cách này cho đến tận bây giờ.
Hai ba năm trở lại đây, thị trường nước ta xuất hiện khá nhiều dòng chén sứ uống trà Thiên Mục (Tenmoku) được sản xuất ở Nhật Bản hoặc TQ. Màu men sứ Thiên Mục tựa hồ như những chùm hoa khoe sắc dưới vạt nắng chiều Thu thơ mộng. Màu men Thiên Mục huyền ảo như vệt khói trầm hương lan tỏa nơi điện Phật uy nghiêm, trầm mặc. Màu men Thiên Mục (Tenmoku) là câu chuyện kỳ này được trà hữu Tiến Vũ tổng hợp từ nhiều nguồn thông tin. Trân trọng giới thiệu! (Phổ Tâm)
Thiên Mục hay Tenmoku là chất men nổi tiếng của Trung Quốc và Nhật Bản. Khác với các loại men thông thường khi có màu sáng như trắng hay xanh ngọc bích, men Thiên Mục thường là kết hợp của những mảng màu tối của đất và kim loại bị nung ở nhiệt độ rất cao.
Thiên Mục được người Nhật đặt theo tên một ngọn núi ở Phúc Kiến, theo tài liệu ghi nhận thì các nhà sư Nhật Bản ghé qua ngôi chùa trên núi Thiên Mục và thấy chư Tăng nơi đây sử dụng chén trà làm từ chất men lạ, cho nên khi đưa đồ gốm tráng men này về nước cũng gọi theo tên ngọn núi này.
Còn ở Trung Quốc người ta gọi loại men này là Kiến Trản. Đồ gốm tráng men Thiên Mục rất được ưa chuộng vào thời nhà Tống (960-1279) và Bắc cũng như Nam Tống sau này. Vào giai đoạn này thì gốm tráng men Thiên Mục cũng được xuất sang cả Nhật Bản và được giới quan lại và thương gia nước này rất ưa chuộng vì sở hữu loại đồ gốm này chính là biểu hiện cho sự giàu có. Sau này người Nhật đưa phong cách tráng men này về nước để tự sản xuất men Thiên Mục và bảo tồn phong cách này cho đến tận bây giờ.
Chất men Thiên Mục có nguồn gốc từ Kiến Châu (nay là Kiến Âu – một huyện của tỉnh Phúc Kiến), do ban đầu chỉ được dùng để làm chén uống trà nên chất men này được đặt là Kiến Trản – ‘trản’ là cái chén nhỏ còn ‘kiến’ là lấy từ ‘kiến’ phổ biến ở các địa danh nơi đây.
Không rõ thời gian chính xác men Thiên Mục ra đời vào khi nào nhưng có một điều chắc chắn là loại men này cực kỳ được ưa chuộng vào thời nhà Tống (960-1279).
Trong khi đó theo những người chuyên nghiên cứu về trà đạo Nhật Bản thì từ Thiên Mục (Tenmoku) thì từ Thiên Mục có được ghi nhận trong tài liệu có từ năm 1333. Thế nhưng theo nhận định khá tin cậy của một số nhà sử học thì đồ gốm làm từ chất men này có mặt ở Nhật Bản vào giai đoạn Kamakura (1192-1333). Nhận định này dựa trên cơ sở là vào thời kỳ Kamakura thì có nhiều nhà sư Nhật Bản sang Trung Quốc để học Phật Pháp. Giai đoạn này trùng với thời kỳ Nam Tống (1127-1279) ở Trung Quốc, đây là khoảng thời gian mà nhiều nhà sư Nhật Bản ghé sang nhiều ngồi chùa ở Trung Quốc để học hỏi thêm về Phật Pháp.
Các bài viết liên quan đến Đất :
Tìm hiểu về Sa nguyên khoáng và tử sa Ngoại Sơn
Tìm hiểu về đất Mặc Lục Nê
Đặc điểm đất Đế Tào Thanh
Cách nhận biết Tử Sa Rạn
Tìm hiểu đất Mặc Lục Nê
Sơ lược về đất Thiên Thanh Nê
Tìm hiểu về đất Đoan Nê trong tử sa Nghi Hưng
Đất thiên thanh nê trong cuốn Dương Tiện Minh Sa Thổ
Có một nhóm nhà sư người Nhật ghé chùa Thiên Mục nên họ không chỉ học về Phật Pháp mà còn học về cách thưởng trà của những vị Tăng nơi đây. Khi về nước thì các nhà sư Nhật Bản mang theo những chén trà Kiến Trản – và để tri ân thì họ đặt tên những chén trà này là Thiên Mục theo tên ngôi chùa mà họ đã ở và tu hành. Có lẽ họ cũng không ngờ rằng đồ gốm tráng men Thiên Mục mà họ mang về làm kỷ niệm lại trở thành một trào lưu mới của giới thượng lưu Nhật Bản vào giai đoạn này.
Trung Quốc vốn nổi tiếng về nhiều thứ và nhiều thế kỷ trước thì gốm của Trung Quốc luôn được ưa chuộng khắp Á Âu qua “Con đường tơ lụa” và nhiều kênh trao đổi hàng hóa khác. Gốm Trung Quốc được ưa chuộng một phần vì tinh xảo và chất lượng cao, mà còn vì đắt đỏ nên giới thượng lưu các nước xem gốm Trung Quốc là một minh chứng không thể thiếu cho sự giàu có.
Thiên Mục có nhiều loại như Hỏa Biến (biến đổi bởi lửa), Thố Hào (lông thỏ), hay Du Trích (giọt dầu) đều là những cái tên rất kiêu kì nên khi các nhà sư Nhật Bản mang những chén trà Thiên Mục về nước thì giới quan lại và thương gia Nhật Bản gần như “phát cuồng” với những chén trà này.
Chuyện kể rằng có một số quan chức còn sẵn sàng xây nguyên một tường thành hay hào nước miễn phí cho người quen chỉ để đổi lấy một chén trà Thiên Mục.
Chất men Thiên Mục rất được ưa chuộng vào thời nhà Tống (960-1279) nên hàng loạt lò gốm mọc lên với nhiều phong cách tráng men khác nhau để tạo nên những chiếc chén Thiên Mục với hình thù và màu sắc riêng. Kiến Châu là nơi sinh ra chén Thiên Mục nên mặc nhiên là lò nổi tiếng và được ưa chuộng nhất, nhu cầu tăng cao nên nhiều lò gốm cũng đua nhau làm chén Thiên Mục.
Vua Tống Huy Tông (1082-1135) là người rất thích thưởng trà và cũng rất thích đấu trà với cận thần. Ông trị vì vào thời gian chén Thiên Mục được ưa chuộng, vốn yêu trà nên không có gì ngạc nhiên khi chính bản thân Huy Tông cũng là người sở hữu rất nhiều loại chén này, nhất là chén của lò Kiến Châu.
Viết trong cuốn Đại Quan Trà Luận của mình, Huy Tông cho rằng chén trà làm từ chất men tối (Thiên Mục) được xem là cực phẩm, nhất là khi dùng chén Thố Hào (một kiểu men Thiên Mục) thì mọi tinh tuý của trà đều được thể hiện ra hết.
Thái Tương (1012-1067) nhà thư pháp nổi tiếng vào thời nhà Tống viết trong cuốn Trà Lục rằng: “Màu nước trà nhìn đẹp nhất là trong chén trà có chất men tối. Chén trà từ lò Kiến Châu được xem là hảo hạng với chất men tím sẫm được tô điểm bởi những vệt rất mỏng tựa như lông thỏ. Thân chén dày giúp nước trà giữ nhiệt được lâu. Chén của những lò khác không sánh bằng vì màu sắc nhợt nhạt còn thân chén thì quá mỏng. Người uống trà lâu năm chẳng bao giờ dùng những chiếc chén mỏng như vậy”.
Ngay cả thi sĩ nổi tiếng cùng thời Hoàng Thính Kiên (1045-1105) còn ví chén Thiên Mục như “kim lâu chá cô ban” (mảng lông vàng rực của chim trĩ) hay “thố cát kim ti bảo oản” (chén quý như được ‘đan’ từ lông thỏ vàng óng mượt).
Tô Đông Pha (1037-1101) – một vị quan nổi tiếng thời nhà Tống – viết trong bài Tống Nam Bình Khiêm Sư: “Một đạo nhân đến ghé thăm ta từ núi Nam Bình và chỉ điểm cho ta cách thưởng trà. Ta rất ngạc nhiên khi ông ta dùng chén Thố Hào. Trà trong chén có hương vị tựa như loại nhất tửu (rượu ngon) nấu vào ngày xuân”. Nguyên cả một bài thơ Tô Đông Pha dành để miêu tả vẻ đẹp của loại chén Thiên Mục này.
Tất nhiên là vào thời gian này không ai gọi loại chén này theo cái tên phổ biến bởi người Nhật là Thiên Mục cả, thường thì người dùng chén sẽ gọi tên theo loại chén là Thố Hào hay Hỏa Biến, hay gọi tên chung của loại chén này là Kiến Trản.
Vào thời nhà Tống thì đạo Nho đang ran tỏa rộng rãi nên những chiếc chén Thiên Mục chỉ có một màu giản dị lại được xem là trân quý (vì đạo Nho do ngài Khổng Tử khai sáng đề cao cách sống giản dị).
Chén Thiên Mục vào thời Tống được làm ra chủ yếu ở Kiến Châu (thuộc Phúc Kiến ngày nay) và một phần khác đến từ Kí Châu (thuộc Giang Tây ngày nay).
Chén Thiên Mục được phân loại theo vẻ bề ngoài, bao gồm: Hoả Biến (biến đổi bởi lửa), Thố Hào (lông thỏ), Du Trích (giọt dầu), Đại Bì và Đại Mạo (vỏ rùa biển), Mộc Diếp (lá cây), Giải Nhãn (mắt cua)…
Người Nhật Bản không chỉ mê chén Thiên Mục, sau này họ còn tìm tòi học hỏi để sau này tự họ làm ra chén Thiên Mục của riêng mình. Do đó cái tên gốc Kiến Trản của chất men này chẳng mấy ai biết đến, thay vào đó là Tenmoku, là Thiên Mục.
Men Thiên Mục về cơ bản không khác nhiều so với cách làm men thông thường, lớp men được tráng lên phần gốm và được đem đi nung ở nhiệt độ cao. Khác biệt lớn nhất là loại men này có làm lượng ô xít kim loại cao nên sau khi nung tạo ra nhiều màu sắc và hình thù rất riêng. Tuỳ theo loại kim loại nào có trong lớp men mà chén thành phẩm lại có màu sắc riêng biệt.
Dưới đây là một số loại chén đặc trưng.
Du Trích
Du Trích là để chỉ loại men Thiên Mục lốm đốm trắng hay nâu như những giọt dầu bị bắn trong chảo chiên. Đôi khi lại là những vệt dài như vết dầu hay vết sơn chảy. Loại men này là kết hợp của hàm lượng rất cao oxit nhôm, silica, kali và magiê và một thành phần nữa để tạo nên màu sắc.
Du Trích có màu nâu đỏ là kết quả của việc cho nhiều oxit sắt (Fe2O3) vào phần men (6-12%).Du Trích có màu đen bạc là do cho thêm cobalt carbonate (CoCO3) vào men (1-5%).
Mảnh gốm mô tả quá trình phân tử oxy trong oxit sắt thoát ra ngoài. Khi quá trình này thật sự hoàn thành thì những vết rổ trong hình trên sẽ được phủ đầy bởi kim loại. ). Trong khi quá trình nung ở nhiệt độ cao này diễn ra, phân tử oxy có trong oxit sắt bị nhiệt độ cao “kéo” ra ngoài tạo thành CO2, vì vẫn đang liên kết trong hợp chất Fe2O3 nên khi phân tử oxy bị “kéo” đi thì phân tử Sắt II (FeO) cũng bị lôi đi theo, khi đến bề mặt men thì chỉ mình phân tử oxy thoát ra không khí còn phân tử Sắt II (FeO) vẫn còn sót lại tạo nên những đốm Sắt II trên bề mặt men. Đây chính là những đốm kim loại của chén Du Trích.
Mảnh gốm mô tả quá trình phân tử oxy trong oxit sắt thoát ra ngoài. Khi quá trình này thật sự hoàn thành thì những vết rổ trong hình trên sẽ được phủ đầy bởi kim loại.
Nếu muốn tạo ra Du Trích trong môi trường bình thường (có oxy) thì phải nung men này ở nhiệt độ cao hơn rất nhiều cách nêu trên (khoảng 1232*C) thì oxit sắt (Fe2O3) sẽ trở thành Sắt II (FeO) vì nhiệt độ quá cao này.
Thố Hào
Ở phần lịch sử của Thiên Mục thì Thố Hào được nhắc đến khá nhiều vì vẻ đẹp của nó. Cũng như tên gọi của mình thì loại chén này có những vệt trắng rất mịn tựa như lông của con thỏ. Thực ra Thố Hào là một dạng biến thể của Du Trích với việc là sẽ dùng nhiệt độ cao hơn nhiều để phân tử kim loại không chỉ nổi lên bề mặt men mà còn tan chảy kéo thành một đường dài. Hàng nghìn giọt kim loại siêu nhỏ trượt thành một đường dài chồng lên nhau tựa như những cọng lông nhỏ xếp chồng vào nhau như lông thỏ.
Hỏa Biến
Hỏa biến Thiên Mục có màu nâu đỏ như một ngọn lửa. Đây là kiểu men Thiên Mục rất thịnh hành và hiện này được sản xuất nhiều ở Trung Quốc, Nhật Bản và cả Đài Loan. Màu nâu đỏ là kết quả của hàm lượng oxit sắt rất cao (12-20%) có trong lớp men làm nên Hỏa Biến.
ày của lớp men, men được tráng mỏng thì hỏa biến có màu nâu đỏ nhạt còn men được tráng dày thì Hỏa Biến sẽ có màu sẫm hơn. Màu sắc còn phụ thuộc vào nhiệt độ nung và kỹ thuật của nghệ nhân làm gốm nữa.
Trà Diếp Mạt
Trà Diếp Mạt (bột trà) hay Chayemo là dạng men Thiên Mục có những chấm li ti nhỏ như trà cám. Đây là kiểu men ra đời trước cả khi men Thiên Mục thịnh hành vào thời nhà Tống. Trà Diếp Mạt ra đời vào thời nhà Đường (618-907) và được tạo ra bởi các lò gốm ở Hiệp Tây và Hà Nam. Thế nhưng kiểu men này bị thất truyền trong một thời gian dài gần 10 thế kỷ đến khi được hồi phục dưới thời vua Ung Chính (cha của Càn Long) của nhà Thanh (1644-1912).
Khác với Du Trích, Trà Diếp Mạt có hàm lượng nhôm thấp nhưng lại chứa nhiều oxit magiê (3-5%) nên sau khi nung thì loại men này có những tinh thể li ti màu vàng xanh nổi trên bề mặt như có bột trà xanh được rắc lên. Thời gian làm nguội của loại men này cũng dài hơn bình thường để các tinh thể này có đủ thời gian để hình thành.
Mộc Diếp
Mộc Diếp hay Konoha là dạng men Thiên Mục có hình một chiếc lá nguyên vẹn trong lòng chén hay dĩa. Không giống như những loại men Thiên Mục khác khi các đường nét hay hình thù là kết quả của việc nung các thành phần kim loại trong men, hình chiếc lá của Mộc Diếp có được đơn giản là khi tráng men người làm gốm sẽ cho thẳng một chiếc là vào.
Nguồn: Tiến Vũ
Click Ngay